Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định
Paris 1973, một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những
hậu quả của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày
nay.
Thay vì
đưa đến “hòa bình trong danh dự”, hiệp định này mở đường cho CSVN xâm chiếm
trọn vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn hai năm sau. Những tài liệu về chiến
tranh Việt Nam được bạch hóa trong thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ
phàng đã đưa đến Hiệp Định Paris 1973.HiệpĐịnh Paris 1973 được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris. Từ trái: Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, Thủ Tướng Chu Ân Lai, và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, Bắc Kinh, 1972. Ảnh tư liệu.
Tóm
tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973
Cuộc
hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon Johnson và
tiếp tục dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt được tiến bộ nào cả
cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry Kissinger, Cố Vấn An Ninh
Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số đồng thuận trong những phiên họp
bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt
(CSBV) và trong cuộc tiếp súc bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai
tại Bắc Kinh. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do
CSBV đưa ra và đòi hỏi nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố
chi tiết về những điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm
trở nên bế tắc. Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục
trong 12 ngày vào cuối năm 1972. Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực VNCH chấp
nhận điều kiện ngưng chiến.
Ngày
23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ bộ. Bốn
ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp Định
này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân
còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ)
được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả
tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH
và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân
chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon
hứa sẽ sử dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này.
Trong
khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt Nam hóa để
quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ.
Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27-1-1973.
Việc
mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không phải là
điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris. Thật vậy,
chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ trước cuộc bầu cử
tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có nghĩa là hi vọng thắng cử
nhiệm kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo.
Vì muốn
bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông Nixon đã làm
đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay CSVN trong nhiệm kỳ I
(1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào
tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng
Sản.
Trên
một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông Kissinger
ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có sự cam kết của
Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau:
“We need a decent interval. You
have our assurance.”
Theo những tài liệu do các phụ tá
của Ông Kissinger ghi chép lại những lời đối thoại của ông với Thủ Tướng Chu Ân
Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa Kỳ sẽ ấn định thời hạn chót cho việc rút quân
và trong thời gian rút quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng 18 tháng và đàm phán.
Nếu thỏa hiệp thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải quyết. Nếu
chính phủ miền Nam Việt Nam không được quần chúng ưa chuộng, lực lượng của Hoa
Kỳ càng rút nhanh, chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ không can
thiệp.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“We will set a deadline for
withdrawals, and during withdrawals there should be a cease-fire, and some
attempt at negotiations. If the agreement breaks down then it is quite possible
that the people in Vietnam will fight it out. If
the [South Vietnamese] government is as unpopular as you seem to think, then
the quicker our forces are withdrawn the quicker it will be overthrown. And if
it is overthrown after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time
limit, say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security
Advisor Henry Kissinger, Beijing , July 9, 1971 .
Hoa Kỳ cũng không muốn miền Nam
Việt Nam mất nhanh chóng trong
vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không
bị mang tiếng thua trận. Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả.
VNCH cần phải tự lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm
về cuộc bại trận cuối cùng. Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon
về vấn đề này:
“The country would care if South Vietnam became Communist in a
matter of six months. They will not give a damn if it’s two years.” President
Richard M. Nixon, March 17, 1973 .
Ông Kissinger trước đó cũng có quan
điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không bị bẽ mặt:
“ We’ve got to find some formula
that holds the thing together a year or two, after which – after a year, Mr. President , Vietnam will be a backwater. If
we settle it, say, this October, by January ’74 no one will give a damn.”
National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972.
Cả hai ông Nixon và Kissinger đều
đồng ý rằng VNCH có thể sẽ mất sau cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974.
Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976.
Nhà Sử Học Ken Hughes thuộc
University of Virginia nhận xét rằng:
“Nhiều người có tư tưởng phóng
khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết muốn ngăn chặn Cộng Sản thắng ở
Việt Nam . Nhưng Ông ta chỉ cương
quyết ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes, June
2010.
Vào tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng
thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với Trung Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ
Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng Chu Ân Lai về chính sách một nước Trung Hoa,
và đạt được sự bảo đảm của Bắc Kinh về giải pháp hòa bình trong danh dự đối với
Việt Nam với một khoảng cách chạy tội (decent interval).
Kéo dài chương trình Rút Quân và
Việt Nam Hóa chiến tranh
Những tài liệu mới giải mật cũng
cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng:
1. Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ
không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự
bảo vệ.
2. Những điều kiện “hòa bình”
mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời
gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội).
Để che
đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông Nixon với sự
khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến năm thứ tư (1972)
của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự sụp đổ của VNCH trước
ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon kéo dài chương trình rút
quân qua nhiều năm.
Trong
cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói:
“We’ve got dates in mind. We’ve got
dates everywhere [from] July to August to September [to] October [to] November
to December [to] January of 1973.” President Richard Nixon, September 4, 1971 .
Quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu
giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm 1968 và đến đầu năm 1973 mới chấm dứt,
tức là sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972.
Đối với công chúng, Ông Nixon phải
rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu:
1. Chứng tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công.
2. Giữ lời hứa khi tranh cử.
Đối với
sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh cử để hoạch
định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà Nội hay không
(Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% - 55 %) và bất kể VNCH có đứng vững sau khi
quân Hoa Kỳ rút về nước hay không.
Hãy
nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger
vào ngày 11-3-1971:
Nixon: “We’ve got to get the hell
out of there.”
Kissinger: “No Question.”
Tuy nhiên trước công chúng Hoa Kỳ,
Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình trong danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút
quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào chương trình Việt Nam hóa hoặc cuộc thương
thuyết thành công – khi miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ và tự quản trị.
Hoa Kỳ thất hứa không can thiệp
trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu
tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép 150,000 quân CSBV ở lại miền Nam sẽ
khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng
Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972,
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ
VNCH tiếp tục tồn tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính
phủ này sẽ sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“In the proposal you have
suggested, our Government will continue to exist. But it is only an agonizing
solution, and sooner or later the Government will crumble and Nguyen Van Thieu
will have to commit suicide somewhere along the line.” President Nguyen Van
Thieu, Saigon, October 4, 1972.
Ông Thiệu cực lực phản đối đề nghị
hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông Nixon
phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV tấn
công. Đồng thời Ông Nixon đe dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải chấp
nhận đề nghị của Hoa Kỳ. Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông Nixon
đe dọa đến cả tính mạng của Ông Thiệu:
“I don’t know whether the threat
goes too far or not, but I’d do any damn thing, that is, or to cut off his head
if necessary.” President Richard Nixon,
January 20, 1973.
Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm
Paris.
Hiệp
Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm dứt việc
can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng đã không mang
lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng một năm sau, vào tháng 1-1974, Tổng
Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không còn giá trị sau khi Cộng quân lợi
dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973, tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm
những vùng xa xôi hẻo lãnh.
Trong
khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ kim cho
tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ kim cho tài
khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm trọng hơn vào cuối năm
1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974 Foreign Assistance Act, chấm
dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ không thể dùng
không lực để trợ giúp miền Nam Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris.
Sau khi
Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh và chiếm tỉnh
Phước Long vào ngày 6-1-1975 và tỉnh Bình Long vào ngày 7-1-1975. Khi không
thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà Nội ra lệnh tổng tấn công để
giải phóng miền Nam bằng cách ngang nhiên xua quân vượt qua biên giới Bắc Nam,
tấn công toàn diện Vùng I và II Chiến Thuật vào tháng 3-1975 và cuối cùng chiếm
Saigon vào 30-4-1975 đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự đoán.
Bộ
Trưởng Quốc Phòng Hoa K ỳ
James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào ngày 14-1-1975 rằng Hoa K ỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy ngày sau,
Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ Watergate, tuyên
bố rằng Hoa
K ỳ không sẵn sàng tái tham
chiến tại Việt Nam. Tại New Orleans vào ngày 23-4-1975, Ông Ford tuyên bố chiến
tranh Việt Nam chấm dứt.
Vào
buổi trưa ngày 29-4-1973, Đài Phát Thanh Saigon truyền đi bản nhạc “I’m
Dreaming of a White Christmas” qua dọng ca của Bing Crosby, báo hiệu cuộc di
tản cuối cùng của Hoa K ỳ
bắt đầu.
Phục hồi Hiệp Định Paris 1973?
Gần đây, có vài nhóm người Việt tại
hải ngoại chủ trương vận động quốc tế để phục hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc
biệt mới đây nhất là Ủy Ban Lãnh Đạo Lâm Th ời VNCH (UBLĐLTVNCH),
một hình thức chính phủ lưu vong nhưng không dùng danh xưng tổng thống hay thủ
tướng, của Ông Nguyễn Ngọc Bích (75 tuổi). Các tổ chức này tin rằng nếu vận
động quốc quốc tế làm sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng không nói
gì đến Hiệp Định Geneva 1954 mà chính VNCH đã
xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam cho VNCH.
Giả sử
rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không có một cơ
may nào cả, UBLĐLTVNCH sẽ không thâu tóm toàn bộ phần đất dưới vĩ tuyến thứ 17
ngay được. Hiệp Định Paris đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam,
UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam (chính thức bị giải tán vào ngày 25-4-1976). Nhưng trước hết,
UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán ngoại trừ 150,000
quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho phép ở lại miền Nam từ 1973
đến nay. Tóm tắt lại để đỡ tốn giấy mực, ý tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là
hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên
Hiệp Định Paris 1973 đau lòng này do chính họ dựng lên.
Kết
luận
Hoa Kỳ
dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ thẹn đối với
một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng may thay, những sử gia
và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh phui ra sự thật và lên án nặng
nề những lỗi lầm đó. Đặc biệt GS Larry Berman đã viết hai cuốn sách được nồng
nhiệt đón nhận:
1. Planning Tragedy: The
Americanization of the War in Vietnam (1982).
2. No Peace No Honor: Nixon,
Kissinger and Betrayal in Vietnam (2001).
Về phía người Việt, hơn ai hết,
chúng ta có trách nhiệm lớn về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam và đưa phần đất
này vào tay Cộng Sản. Nếu Ông Hồ Chí Minh khôn ngoan đã không du nhập chế độ
Cộng Sản vào Việt Nam và nếu người dân Việt Nam, kể cả một thành phần không nhỏ
trí thức, khôn ngoan đã không đi theo Cộng Sản để reo rắc đau thương triền miên
cho đất nước trong một nửa thế kỷ và làm đất nước chậm tiến như ngày nay. Một
bài học lớn là đừng bao giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là
đồng minh.
Nguyễn Quốc Khải gửi RFA
Tài liệu tham khảo:
1. Larry Berman, “No Peace No
Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam ,” The Free Press, 2001.
2. Finding Dulcinea, “On this Day:
Paris Peace Accords Signed, Ending American Involvement in Vietnam War,”
January 27, 2012.
3. Trọng Đạt, “Nixon và Hòa Bình
Trong Danh Dự,” 27-01-2012.
4. Kennedy Hickman, “Vietnam War
end of conflict, 1973-1975,” Military History.
5. Ken Hughes, “Fatal Politics:
Nixon’s Political Timetable For Withdrawing From Vietnam,” Diplomatic History,
Vol. 34, No. 3, June 2010.
6. Stanley Karnow, “Vietnam A
History,” Penguin Books, 1997.
7. Jeffrey Kimball, “Decent
Interval or Not? The Paris Agreement and the End of the Vietnam War,”December
2003.
8. Henry Kissinger, “Years of
Renewal,” Simon & Schuster, 1999.
9. Richard Nixon, “No More Vietnam ,” Arbor House, New York 1985.
10. Frank Snepp, “Decent Interval,”
Random House, 1977.
11. Global Security, “A Decent
Interval – Who Lost Vietnam ?” May 7, 2011 .
12. Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia,
“Hiệp Định Paris 1973.”
Copyright © 1998-2011 Radio
Free
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét