Cách đây ít lâu, tôi tình cờ đọc được một nghiên cứu thị trường, trong đó thể hiện rằng người Việt Nam rất tự hào là có một ly cà phê "đậm, đắng, đặc quẹo mà người nước ngoài không uống được".
Thế
nhưng, họ không biết rằng niềm tự hào của họ được xây từ những điều dối trá.
Để mở đầu, tôi có thể nói sơ lược như sau: về nguyên thuỷ thì ly cà phê thường được uống nóng. Rồi dân ta, đặc biệt dân Nam, với thói quen thưởng thức dễ dãi của mình, chuyển qua uống đá . Từ đây, loại cà phê nguyên chất không còn được ưa chuộng nữa: trong nước đá, nó loãng ra và không đủ đắng, còn mùi hương thì bị ức chế bởi nhiệt độ thấp.
Để mở đầu, tôi có thể nói sơ lược như sau: về nguyên thuỷ thì ly cà phê thường được uống nóng. Rồi dân ta, đặc biệt dân Nam, với thói quen thưởng thức dễ dãi của mình, chuyển qua uống đá . Từ đây, loại cà phê nguyên chất không còn được ưa chuộng nữa: trong nước đá, nó loãng ra và không đủ đắng, còn mùi hương thì bị ức chế bởi nhiệt độ thấp.
Và thế
là các nhà sản xuất tìm đủ mọi cách để tăng đắng và tăng mùi hương.
Nhưng
cuối cùng, Trung Nguyên đã trở thành nhà phát minh vĩ đại nhất trong lịch sử chế
biến cà phê Việt Nam, với việc cho thuốc ký ninh vào cà phê với liều
lượng cao. Một biện pháp hết sức rẻ tiền và hiệu quả.
Song
song đó, TN đã tiên phong trên con đường trộn hương nhân tạo nồng độ cao vào
cà phê để tăng hương. Xét về mặt sức khoẻ, điều này cũng không hại lắm, nếu
như không có mặt của một chất cầm hương, đó là gelatin. Vốn dĩ gelatin được sản
xuất từ da và xương trâu - bò, và đủ tiêu chuẩn làm thực phẩm thì rất đắt, nên
TN đã sử dụng gelatin Trung Qu ốc làm nền cầm hương.
Và thứ
này thì hiển nhiên là không dùng được cho thực phẩm, vì nó chứa rất nhiều preservatives.
Thế
nhưng, những điều đó của riêng Trung Nguyên thì không có gì đáng nói. Điều đáng nói là khi ly cà phê
TN được coi là tiêu chuẩn, thì tất cả các cơ sở sản xuất cà phê khác đều noi
theo tấm gương sáng này, nếu không thì không bán được.
Và như
thế, không ngoa khi nói rằng, TN đã đẩy ly cà phê Việt vào một ngõ cụt dối trá.
P/S:
Nếu bạn không tin, cứ dùng phin pha một ly cà phê TN bằng nước lạnh, rồi nếm thử
cà phê nước ấy xem có vị gì.
Ký ninh
từ lâu đã được sử dụng làm tác nhân gây đắng trong thực phẩm, và với hàm lượng
nhỏ thì nói chung là an toàn. Tuy nhiên, lượng ký ninh được sử dụng trong cà
phê TN nói riêng và TẤT CẢ CƠ SỞ cà phê ở Việt Nam nói chung là ở mức khoảng
0,06~0,08 g/kg thành phẩm, tức khoảng 0,0015g~ 0,002g cho mỗi phin.
Ở mức
này, thì việc uống cà phê lâu dài sẽ dẫn tới triệu chứng cinchonism, tức ngộ
độc ký ninh, bao gồm dị ứng trên da, ù tai, chóng mặt, giảm chức năng nghe và
nhiều triệu chứng mang tính cơ hội khác.
Còn
chuyện bạn hỏi về "tại sao không có ai lên tiếng" - well, Chi cục Y
tế dự phòng Đaklak biết rõ mọi chuyện n ày - nhưng ở Việt Nam nói chung trong
mọi vấn đề đều rất khó lên tiếng, và luôn luôn có một kênh nào đó để
"bịt". Cho nên, điều nhỏ nhất mà tôi nghĩ có thể làm được là tự mình
không uống cà phê, và khuyến khích những người mình biết không uống cà phê.
Tôi chỉ nói những gì tôi chắc chắn hiểu rõ. Tôi không có ý vơ đũa cả nắm. Và cũng hy vọng các bạn không nghĩ thế.
Tôi chỉ nói những gì tôi chắc chắn hiểu rõ. Tôi không có ý vơ đũa cả nắm. Và cũng hy vọng các bạn không nghĩ thế.
Nhưng
về sự giả dối trong ly cà phê Việt Nam, có lẽ các bạn cần hiểu rõ hơn một chút.
So với
cách uống cà phê ở phương Tây, thì ly cà phê Việt được uống theo kiểu dễ dãi:
cứ mỗi phin cà phê pha ra khoảng 40 ml, được đổ vào một ly nước đá khoảng 180
ml.
Và
chính nước đá mới là nguồn gốc của mọi tai hoạ.
Một ly
cà phê nguyên chất không đủ đắng để có thể cảm nhận được vị đắng trong chừng ấy
nước đá. Nhiệt độ thấp sẽ ức chế sự bay hơi của hương cà phê tự nhiên. Và cảm
quan nó không đủ độ sánh để không bị tan loãng ra trong chừng ấy nước đá.
Cho
nên, trước Trung Nguyên từ lâu, thì cách hoàn thiện một ly cà phê đá đã bao gồm 3
việc: tăng đắng cho cà phê, tăng mùi hương cho cà phê, và tăng độ sánh cho cà
phê.
Cách
chế biến truyền thống như sau: Để tăng đắng, người ta thường dùng hạt cau rang.
Để tăng mùi, người ta thường dùng nước mắm nhĩ. Còn để tăng độ sánh, người ta
dùng đường nấu thành caramel.
Trung
Nguyên chỉ là nhà sản xuất đưa ra những giải pháp hiệu quả nhất, và biến nó
thành chuẩn mực "cà phê ngon" mà thôi.
Điều
đáng nói nhất là khi nó đã thành chuẩn mực, thì sự giả dối nghiễm nhiên lộng
giả thành chân.
Về phía
các cơ sở sản xuất, thì họ nghĩ - khi những chỉ tiêu chất lượng quan trọng bậc
nhất của cà phê - độ đắng, mùi hương, độ sánh - đều là hàng giả, thì việc gì họ
phải dùng cà phê thật làm gì?
Về phía
người uống, khi đã quen với thuốc ký ninh và đường caramel, họ mất khả năng
thưởng thức cà phê ngon thực sự. Và tôi tin chắc rằng, nếu được uống một ly cà
phê Blue Mountains hay Hawaii Kona, họ sẽ chửi thề.
Và thế
là người Việt, đa phần, đều gật gù trước một ly nước màu đen, pha từ đậu nành
hay bắp rang, trộn với caramel, hương liệu, thuốc ký ninh và nghĩ rằng họ đang
uống thứ cà phê "có văn hoá đặc biệt nhất thế giới".
Đến đây
chính là một ngõ cụt - Ngõ cụt dối trá.
Câu hỏi
cuối cùng - chính xác ai phải chịu trách nhiệm cho tình trạng đó? Sự dễ dãi của
người uống? Sự xu thời của Trung Nguyên ? Hay là trình độ quản lý chất lượng thực phẩm của Nhà
nước?
₪ ₪ ₪
P/S:
Một điểm cuối cùng, bạn uống ly cà phê Việt, cảm thấy nôn nao, tim đập mạnh,
thì đấy có khả năng là ngộ độc ký ninh chứ không phải là do tác dụng kích thích
trí não của cà phê như bạn vẫn nghĩ.
Co Pham
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét